TẠI SAO CẦN THEO DỎI 2 TUẦN CHO BIP KẾT HỢP.

TẠI SAO CẦN THEO DỎI 2 TUẦN  CHO BIP KẾT HỢP.

Trong Câu hỏi trước cho Các Giảng viên cấp cao bạn đã được giải thích lý do tại sao phải cần đến 3 chu kỳ để được xác nhận Dạng Không Thụ thai Căn bản có chất tiết trong chu kỳ 35 ngày hay ít hơn. Bây giờ bạn có thể giải thích lý do tại sao chúng tôi yêu cầu cặp đôi đợi không giao hợp trong hai tuần để xác định KTT (BIP) chất tiết hoặc KTT Kết hợp khi rụng trứng bị trì hoãn trong chu kỳ không?

Ghi chú: Dạng Không Thụ thai Căn bản (KTT) = Basic Infertile Pattern (BIP)

Để đáp lại yêu cầu của bạn và bằng văn bản trả lời, chúng tôi đã xem lại nguồn, tài liệu chính thức và các bài báo đã xuất bản, bao gồm cả những bài được đăng trên Bản tin (Bulletin). Chúng tôi xin thêm câu trả lời sáng suốt của vị giảng viên đã dạy chúng tôi luôn đơn giản, đó là bà Tiến sĩ Lyn Billings – những lời này được in nghiêng.

Dạng Không Thụ thai Căn bản (KTT) phản ảnh sự đáp ứng của cổ tử cung đối với nội tiết tố theo mô hình và chính vì lý do này mà các giáo viên và các cặp vợ chồng được dạy là “suy nghĩ theo mô hình”. Khi mô hình gồm dạng không thay đổi- giống ngày này qua ngày khác là không khả năng thụ thai, và khi mô hình có dạng chất nhờn thay đổi mỗi ngày là dạng có khả năng thụ thai. Việc đánh giá không chính xác khi chỉ dựa trên một mẫu chất nhờn riêng biệt cho là có khả năng thụ thai hoặc không thụ thai. Nó phụ thuộc vào vị trí của người phụ nữ trong mô hình nội tiết tố trong chu kỳ của cô ấy. KTT là một mô hình không có hoạt động cổ tử cung, hoặc là khô khi nồng độ estrogen rất thấp hoặc có chất tiết giống nhau ngày này qua ngày khác khi nó tăng nhẹ, cũng có thể quan sát thấy chất tiết có nguồn gốc từ âm đạo và thường xảy ra trong những chu kỳ kéo dài khi trứng rụng bị trì hoãn.1

Tất cả mọi chất thoát ra từ âm đạo đều là dịch tiết – máu, chất nhờn, sản dịch, chất tiết của KTT- BIP (từ tế bào âm đạo – âm đạo không có tuyến và không tiết ra chất nhầy), dịch tinh dịch, dịch tiết kích thích, dịch tiết nhiễm trùng 2 .

Trong phần giải thích của chúng tôi về KTT có chất tiết trong chu kỳ dưới 35 ngày, là chất tiết phát xuất từ các mảnh nhỏ thoát ra từ đáy nút chất nhờn G. Giáo sư Brown đã chứng minh rằng tại thời điểm này trong chu kỳ, hormone buồng trứng ở mức thấp và ổn định, đồng thời Giáo sư Odeblad xác nhận nút nhờn G vẫn còn nguyên vẹn nên hiện tượng không thụ thai xảy ra trong quá trình của Dạng KTT Căn bản có chất tiết.

Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng trong những chu kỳ bình thường này, không có đủ thời gian để âm đạo phản ứng trước khi nồng độ estrogen tăng lên khi khả năng thụ thai bắt đầu. Sự

đáp ứng của cổ tử cung này giờ đây khiến người phụ nữ cảm nhận được sự hiện diện của chất nhờn và cô ấy nhận ra tiềm năng khả năng thụ thai của mình qua dạng chất nhờn đang thay đổi và phát triển. Chúng ta nhận biết có sự thay đổi không còn Dạng Không thụ thai Căn bản KTT nữa là do lượng estrogen tăng tạo ra sự lựa chọn, phát triển và trưởng thành của nang trứng theo tiến trình cho rụng trứng.

Tuy nhiên, khi quá trình rụng trứng bị trì hoãn, chúng ta biết rằng nồng độ hormone buồng trứng thấp sẽ mất nhiều thời gian hơn trước khi có nang trứng hoạt động và đưa đến sự đáp ứng ở cổ tử cung. Thay vì vài ngày, có thể là vài tuần hoặc vài tháng. Trong những trường hợp khi quá trình rụng trứng bị trì hoãn, các nghiên cứu về nội tiết tố của Giáo sư Brown cho thấy nồng độ estrogen có thể tăng lên mức cao hơn một chút so với khi người phụ nữ cảm thấy khô nhưng sau đó sẽ ổn định nên cô ấy có thể cảm nhận thay đổi chuyển từ khô sang cảm giác nơi âm hộ. hoặc thấy ít chất tiết hoặc cả hai. Cô ấy có thể thấy mình có những ngày khô ráo, không nhìn thấy gì xen lẫn những ngày có chất tiết. Quan sát thấy những gì ghi trên biểu đồ những ngày có chất tiết giống nhau ngày qua ngày, đó là một dạng mô hình không thay đổi.

Trong chu kỳ dài, quan sát thấy chất tiết không thay đổi trong thời gian hai tuần trở lên không có ra máu, có thể tuyên bố rằng nó phản ánh mức độ estrogen cao hơn một chút so với lúc khô do mực độ estrogen thấp. Không có hoạt động cổ tử cung. Đặc điểm của chất tiết có thể thay đổi đáng kể ở phụ nữ này qua phụ nữ khác nhưng đối với từng người sẽ giống nhau từng ngày. Nguồn gốc của sự tiết dịch này là từ các tế bào trung gian của biểu mô âm đạo, có kích thước lớn, hình cầu và được bao quanh bởi một lớp glycocalyx. Dưới ảnh hưởng của sự tăng nhẹ estrogen, các tế bào này bong ra, bị ly giải và thải ra ngoài (Odeblad)1.

Giáo sư Odeblad đã giải thích rằng khi chu kỳ đều đặn bình thường, người phụ nữ sẽ có KTT Khô hoặc KTT chất tiết, không phải cả hai. Bây giờ, khi quá trình rụng trứng bị trì hoãn làm chu kỳ kéo dài, người phụ nữ có thể có những ngày âm đạo khô và những ngày có chất tiết. Hoặc có thể cô ấy không có ngày khô nào chỉ có những ngày có chất tiết có hai tính chất khác nhau.

Khi quá trình rụng trứng bị trì hoãn, chất tiết ra không phải từ đáy nút nhờn G mà lúc này do đủ thời gian để biểu mô âm đạo đáp ứng. Các tế bào biểu mô của âm đạo, giống như tất cả các tế bào của cơ thể, liên tục trải qua quá trình phát triển, chết đi, bong ra và được thay thế bằng các tế bào mới. Giáo sư Odeblad đã giải thích rằng khi quá trình rụng trứng bị trì hoãn kéo dài, thực sự âm đạo người phụ nữ cho ra chất tiết. Không giống như chất nhờn cổ tử cung có thể thay đổi và phát triển, chất tiết này có dạng không thay đổi.

Các hướng dẫn để xác định KTT kết hợp dựa trên bằng chứng khoa học – quan sát trong hai tuần không giao hợp và không ra máu sẽ xác định đây là dịch tiết không thay đổi (Dạng Không Thụ thai Căn bản KTT).6

Hai tuần là thời gian đủ để người phụ nữ thấy chất tiết ra không thay đổi. Hai tuần sẽ cho phép người phụ nữ xác định chất tiết này là không thay đổi, ngay cả khi nó xen kẽ với những ngày khô ráo. Một tuần là không đủ thời gian để chứng minh rằng bất kỳ sự chất tiết nào đều

 

không liên quan đến khả năng thụ thai. Tuy nhiên, đây là một phương pháp hợp lý dễ hiểu. Nếu cặp đôi nhìn lại để xem xét biểu đồ của họ và vẫn chưa tròn hai tuần kể từ khi thay đổi, có thể là 12 ngày thì cũng đủ thời gian để xác định rằng mô hình này không thay đổi, thì Dạng Không Thụ thai Căn bản KTT có thể được xác định một cách tự tin và Luật Ngày trước được áp dụng.

Khi quá trình rụng trứng bị trì hoãn, hai tuần lập biểu đồ không quan hệ tình dục và không chảy máu sẽ xác định được mô hình có dạng không thay đổi của không thụ thai và Dạng Không Thụ thai Căn bản mới nếu có.3

Các cặp vợ chồng được yêu cầu chờ đợi mà không có hoạt động tình dục trong hai tuần để chất tiết do sự kích thích tình dục và tinh dịch không che lấp khi có sự thay đổi báo hiệu khả năng thụ thai. Người phụ nữ cũng khó có thể tự tin rằng hai tuần này không thay đổi khi có những ngày ẩm ướt do tinh dịch. Mang thai cũng có thể xảy ra nếu sự thay đổi dẫn đến khả năng thụ thai và rụng trứng.

Cần nhấn mạnh rằng lời khuyên “ghi biểu đồ với kiêng cử” có nghĩa là tránh mọi tiếp xúc với bộ phận sinh dục. Điều này là cần thiết để tránh nhầm lẫn do sự hiện diện của tinh dịch, được quan sát thấy dưới dạng chất tiết ra sau khi giao hợp, hoặc do dịch tiết của âm đạo bị kích thích khi tiếp xúc cơ thể khi giao hợp, bao gồm cả giao hợp gián đoạn và giao hợp bằng các biện pháp tránh thai hàng rào. , chẳng hạn như bao cao su hoặc màng ngăn.3

Việc không ra máu trong hai tuần có chất tiết không thay đổi này là dấu hiệu cho thấy không có sự thay đổi đáng kể nào về nồng độ hormone buồng trứng. Nồng độ estrogen ổn định hoặc dao động giữa hai mức thấp. Nồng độ progesterone vẫn ở mức thấp và ổn định trong suốt thời gian này.

Nếu việc ra máu xảy ra trong hai tuần này, đây là dấu hiệu cho thấy hoạt động của buồng trứng trước hoặc trong thời gian lập biểu đồ. Giáo sư Brown viết “Việc ra máu là kết quả cuối cùng của hoạt động của buồng trứng”.7 Đó có thể là kinh nguyệt sau khi rụng trứng. Đó có thể là ra máu do sự rút giảm estrogen sau hoạt động của buồng trứng và không rụng trứng hoặc có thể là ra máu vượt mức do hoạt động của nang trứng và nồng độ estrogen cao. Người phụ nữ đó đã trải qua một trong những Biến thể của Sự Liên tục như Giáo sư Brown mô tả không?

Trong Dạng Không Thụ Thai Căn bản (KTT) từ hai tuần trở lên mà không có ra máu, có chất tiết không thay đổi biểu thị KTT chất tiết và phản ánh nồng độ estrogen thấp. Chất tiết này có thể bị gián đoạn bởi những ngày khô (KTT kết hợp). Có lúc những biến động nhỏ về nồng độ estrogen sẽ gây ra hiện tượng này. Sẽ rất hữu ích nếu giảng viên hiểu được hoạt động của các hormone buồng trứng và đáp ứng của chất nhờn cổ tử cung. Biểu đồ khoa học của PPRTBillings chứa tất cả thông tin cần thiết để có thể diễn giải hành vi của các kiểu chất tiết mà người phụ nữ sẽ lập biểu đồ.2

Ứng dụng thực tế của hướng dẫn khi trì hoãn rụng trứng:

Chúng ta phải luôn nhớ rằng hai tuần có thể là giai đoạn hoàng thể.

Có hai trường hợp xảy ra:

Người phụ nữ mới học Phương pháp

Đối với người phụ nữ mới, cô ấy có thể đã rụng trứng ngay trước khi bắt đầu biểu đồ và vì cô ấy không biết về các dấu hiệu khả năng thụ thai của mình nên việc rụng trứng không được nhận biết.

Nếu việc theo dõi dạng mô hình vẫn chưa rõ ràng sau hai tuần, thì việc theo dõi biểu đồ thêm một tuần sẽ cho thấy rõ ràng hơn. Nếu người phụ nữ đã trải qua những ngày khô ráo trong hai tuần này, điều này có thể được coi là KTT của cô ấy ngay lập tức và Những Luật Ngày Trước có thể được áp dụng trong tuần tiếp theo.

Người phụ nữ đã học và đang ghi biểu đồ, đã nhận biết được KTT và nay thấy có sự thay đổi

Đối với người phụ nữ đã và đang ghi biểu đồ, có thể đã có sự thay đổi ngay trước hai tuần này hoặc thậm chí trong vài ngày đầu tiên của biểu đồ và cô ấy có thể đã rụng trứng với sự đáp ứng cổ tử cung kém. Nếu có thể nhận diện được tình trạng Không thụ thai do dạng không thay đổi của nó thì cặp vợ chồng có thể bắt đầu sử dụng các Luật Ngày Trước sau hai tuần đến khi có dấu hiệu bắt đầu có sự thay đổi. Nếu không có ra máu trong vài ngày tiếp theo của biểu đồ này, điều này sẽ xác nhận rằng đó không phải là giai đoạn hoàng thể. Nếu có chảy máu trong vài ngày tới, biểu đồ sẽ cần được xem xét thêm và cặp đôi sẽ áp dụng Luật 3 Ngày Trước đối với tình trạng chảy máu.

Vì cặp vợ chồng này đã áp dụng Các Luật của Phương pháp Rụng trứng Billings® nên khi có sự thay đổi sẽ phải áp dụng Luật 3 Ngày Trước. Nếu Dạng KTT Căn bản của cô trước đó quay trở lại thì phải ghi đếm 3 ngày KTT (1,2 3) được áp dụng. Nếu KTT vẫn xuất hiện sau khi đếm ngày 3, từ ngày thứ 4, có thể sử dụng Luật 2 Ngày Trước để giao hợp ( đầu đêm và cách đêm). Nếu KTT thay đổi, thời gian giao hợp sẽ bị hạn chế trong hai tuần này. Việc xem lại biểu đồ để coi dạng mô hình tổng thể là không thay đổi. Vì vậy, ngay cả khi một hoặc hai ngày giao hợp đã xảy ra trong thời gian này, Dạng Không Thụ thai Căn bản kết hợp được xác định một cách chắc chắn.

Đối với hầu hết phụ nữ, việc lập biểu đồ trong hai tuần này là đủ để xác định KTT chất tiết hoặc KTT Kết hợp. Tuy nhiên, nếu mô hình không rõ ràng – có lẽ đã có một số ngày không giống nhau và có thể cho thấy mức estrogen cao hơn, có thể cần phải yêu cầu cặp vợ chồng đợi và tiếp tụctheo dõi biểu đồ cho một tuần nữa để xác định thời gian không thụ thai hay có sự thay đổi sang dạng khả năng thụ thai rõ ràng xác định được.

Sau hai tuần, biểu đồ ghi KTT, bao gồm tất cả những thay đổi nhỏ và áp dụng Những Luật Ngày Trước. Sau vài ngày nữa, do không còn chảy máu nên có thể kết luận chắc chắn là không có rụng trứng. … Nếu chảy máu xảy ra, vì không có Đỉnh, nên người ta không thể cho rằng sự rụng trứng đã xảy ra, do đó Luật Những Ngày Trước sẽ tiếp tục được áp dụng cho BIP như đã xác định, cần đếm và ghi ngày từ một đến ba (123) sau khi ra máu.2

Sự rụng trứng bị trì hoãn có thể xảy ra với bất kỳ phụ nữ nào, tuy nhiên chúng ta được cho biết nó sẽ xảy ra khi phụ nữ đang ở trong giai đoạn cuộc đời nơi xảy ra các biến đổi có tính Liên Tục (the variants of the Continuum), như Giáo sư Brown giải thích. Cuối cùng, qua biến đổi người phụ nữ cũng sẽ nhận diện được Đỉnh qua các tiêu chí và áp dụng Luật Đỉnh.

Chu kỳ kinh nguyệt kéo dài là do giai đoạn trước rụng trứng của chu kỳ bị kéo dài. Đôi khi một chu kỳ dài bất thường xảy ra đột ngột như một sự kiện cá biệt ở một phụ nữ trẻ. Trong các trường hợp khác, sự bất thường đáng kể có thể là thường lệ của họ. Căng thẳng nghiêm trọng về thể chất hoặc tinh thần có thể trì hoãn sự rụng trứng. Sau khi ngừng dùng thuốc tránh thai, chu kỳ không đều là điều thường gặp, đặc biệt ở những phụ nữ đã có chu kỳ không đều trước đó. Trong thời kỳ cho con bú, sự rụng trứng thường bị ức chế trong quá trình sản xuất sữa mẹ và kết quả là một ví dụ cụ thể về chu kỳ rất dài.

Sự phát triển đến trưởng thành về mặt sinh dục, khi bắt đầu đời sống sinh sản (có kinh nguyệt), có sự thay đổi đáng kể về khoảng thời gian giữa thời điểm ra máu và dạng chất nhờn tiết ra; vì trong một hoặc hai năm đầu có thể ra máu định kỳ mà không có sự rụng trứng. Thời điểm thay đổi cuộc sống (tiền mãn kinh), chu kỳ kinh nguyệt không đều lại thường xuyên xảy ra; một số chu kỳ ngắn (rụng trứng sớm) và một số chu kỳ dài (rụng trứng bị trì hoãn) và việc ra máu thưa dần và không có sự rụng trứng.3

Vì vậy, một lần nữa, chúng ta hưởng lợi ích khi có các nghiên cứu lâm sàng do Tiến sĩ John và Evelyn Billings thực hiện cũng như công trình khoa học của Giáo sư Brown và Odeblad để xác nhận với chúng ta rằng những gì chúng ta dạy là dựa trên kiến thức khoa học.

Tham khảo References

A Note to Teachers, Billings E. L., Bulletin of OMR&RCA Vol 26 No1, March 1999

Basic Infertile Pattern, Billings E. L., Bulletin of OMR&RCA Vol 35 No 3, November, 2008

Lengthening of the Pre-ovulatory Phase of the Cycle, Billings E. L., Bulletin of OMR&RCA Vol 36 No 2, July 2009

The Billings Method Billings EL, Westmore A, Anne O’Donovan Publishing, 2011

Teaching the Billings Ovulation Method Part 1 Billings E.L., OMR&RCA Third Edition, 2001

Teaching the Billings Ovulation Method Part 2 Billings E.L., Billings J.B., OMR&RCA 1997, revised 2022

Studies in Human Reproduction, Brown J.B. OMR&RCA 2000

Cervical Mucus and their Functions, Odeblad Erik, The Irish College of Physicians and Surgeons, 1997

©WOOMB International 2024

Bulletin of WOOMB International Vol 51 No 2